SÁNG THẾ 1

  • Cập nhật: Chủ nhật, 16/10/2022 | 10:12:20 PM

Đức Chúa Trời sáng tạo nên Thế giới.

"Chúa tạo nên ánh sáng", tranh minh họa của Gustave Dore

Chương I


1. Thủa ban đầu Chúa dựng nên trời đất.
2. Đất bấy giờ không hình dạng, trống không;
còn bóng tối bao trùm lên bờ vực,
Ngài lướt đi giữa mặt nước mênh mông.

3. Rồi Chúa nói: Cần có thêm ánh sáng,
và có ngay một luồng sáng bừng lên.
4. Thiên Chúa thấy ánh sáng dường rất tốt,
bèn tách rời ÁNH SÁNG khỏi BÓNG ĐÊM.

5. Và Ngài gọi BAN NGÀY là sự sáng,
còn BAN ĐÊM : lúc bóng tối tràn lan.
Vậy là có buổi chiều và buổi sáng,
ngày đầu tiên bắt đầu thế.
6. Tuy nhiên

Chúa lại phán: "Phải có gì ngăn cách
để phân chia nước với nước”;
7. Cho nên
Ngài đã làm một cái vòm chia rẽ
rồi đặt tên cho khoảng trống bên trên;

8. Là THIÊN ĐƯỜNG, và có liền như vậy,
ngày thứ hai nhẹ nhàng thế trôi đi.
9. Chúa lại phán: "Nước nên chăng tụ lại,
nơi cạn khô gọi là ĐẤT”,
10. Bởi vì

chỗ nước tụ Ngài bảo đây là BIỂN,
và rất vui thấy mọi sự tốt lành.
11. Ngài phán tiếp: "Đất phải sinh cây cỏ,
để các loài cho trái đất màu xanh,

tùy từng giống mà có cây cho hạt,
rồi có cây lại cho trái ngọt lành”;
Chúa phán xong bèn có liền như vậy.
12. Muôn giống loài trên mặt đất mọc lên,

ngay lập tức có những cây cho hạt,
và có loài lại cho quả, mỗi cây
đều có cách gieo hạt riêng của nó,
Chúa hài lòng ngắm mặt đất xoa tay.

13. Vậy là hết buổi chiều và buổi sáng,
ngày thứ ba bận rộn đã trôi qua.
14. Chúa phán bảo: "Phải có gì soi chiếu
trong khoảng không, để còn biết phân ra

NGÀY và ĐÊM, rồi chia thành các tiết”.
Và các MÙA vì thế được sinh ra,
NGÀY và NĂM cũng bắt đầu từ đó.
15. "Các chòm sao, tinh tú giữa bao la

hãy rọi chiếu trong màn đêm soi sáng
trái đất này!” Chúa phán bảo, cho nên
các vì sao bèn ngời lên, lấp lánh.
16. Không đủ nên Ngài tiếp tục thêm vào

hai vì sáng lớn gấp nhiều tinh tú,
một nhỏ hơn để cai trị ban đêm,
còn ban ngày vì lớn hơn một chút,
các ngôi sao cũng được Chúa tạo thêm,

17. Trong khoảng không đặng sáng soi mặt đất;
18. Để dễ bề thống trị cả ngày đêm,
đặng phân rẽ sự tối và sự sáng
theo ý Ngài điều đó chỉ tốt thêm.

19. Vậy là hết buổi chiều và buổi sáng
ngày thứ tư.
20. Chúa tiếp tục phán rằng:
"Nước phải chứa thật nhiều sinh vật sống,
chim thì bay lượn ở giữa tầng không”.

21. Chúa lại dựng nên các loài cá lớn,
và muôn loài nhờ có nước sinh ra
theo từng loại, vì Ngài cho rằng thế
là tốt lành nên ban phước bao la.

22. Chúa lại phán: "Hãy sản sinh thêm nữa
cá muôn loài đầy rẫy dưới biển khơi,
các loài chim cứ đẻ trên mặt đất
bay khắp trời lúc nào chán thì thôi”.

23. Vậy là hết buổi chiều và buổi sáng
ngày thứ năm.
24. Chúa tiếp tục phán rằng:
"Đất phải sinh các côn trùng, súc vật,
hay thú rừng, tùy theo loại, tập trung

sống bầy đàn ngay ở trên mặt đất.”
25. Lập tức Ngài tạo ra các loài ngay,
từ thú rừng đến côn trùng, súc vật.
"Thật tốt lành!” Chúa hoan hỷ xoa tay.

26. Rồi lại phán: "Phải làm ra một thứ
là con người có hình tượng giống ta
để quản trị súc vật rồi chim, cá
khắp muôn loài trong thế giới bao la.”

27. Và Thiên Chúa, Ngài bắt đầu tạo dựng
một dáng hình giống như Chúa hiện ra
loài này phải có người nam, người nữ.
28. Ban phước xong, Ngài tiếp tục phán rằng:

"Hãy sinh sản cho thêm dòng thêm giống
vì thế gian còn rộng lớn nhường kia;
hãy khiến đất phải phục tùng răm rắp
quản trị sao cho từng bước chân đi

của muông thú vẫn ở trong tầm mắt.”
29. Rồi tiếp theo Thiên Chúa lại phán rằng:
"Ta đã ban cho các ngươi mọi thứ
từ cỏ cây đến hoa trái để ăn,

cùng hạt giống trong các loài quả ấy.
30. Các loài chim, súc vật sống theo đàn,
mọi sinh vật di chuyển trên mặt nước,
trong số này có loài đã được ban

linh hồn sống, phàm giống nào cũng được
ăn những loài từ dưới đất mọc lên.”
Chúa phán vậy và có ngay như vậy.
31. Ngài rất vui thấy mọi việc mình làm

đều tốt lành. Và buổi chiều đã hết,
đêm dần buông, ngày thứ bảy đã sang.

CHÚ THÍCH
1 : 1
"Đức Chúa Trời” (Lord) hay Thiên Chúa, Thượng đế (God) theo thuyết hữu thần (theism) là một đấng siêu nhiên trong tiến trình vận hành thế giới. Đa số người Cơ Đốc giáo tin rằng Thiên Chúa là vĩnh tồn (Hằng Hữu), Ngài là đấng Nhân từ, Toàn năng và Toàn tri.
1 : 2
Nguyên văn: "Còn trái đất không có hình dạng và trống rỗng; và bóng tối bao trùm mặt vực sâu. Và Thánh Linh của Đức Chúa Trời chuyển động trên mặt nước.” (And the earth was without form, and void; and darkness was upon the face of the deep. And the Spirit of God moved upon the face of the waters.)
+ Có bản dịch là: "Và trái đất là hoang địa và không có hình dạng…” (And the earth was waste and without form); hoặc "Nhưng trái đất trống rỗng và không có người ở…” (But the earth was empty and unoccupied,).
1 : 5
Nguyên văn: "Và Chúa gọi ánh sáng là Ban Ngày, còn bóng tối là Ban Đêm. Vậy là có buổi chiều và buổi sáng (trong) ngày đầu tiên.” (And God called the light Day, and the darkness he called Night. And the evening and the morning were the first day.)
+ Theo quan niệm của các dân tộc ở vùng Cận đông cổ đại, một ngày của họ bắt đầu khi mặt trời đã lặn, khi đó mặt đất tối đen, còn con người cũng như vật nuôi đều được nghỉ ngơi, không phải làm bất cứ công việc nặng nhọc nào nữa. Và "Ban Ngày” được họ tính từ lúc mặt trời mọc (rạng đông) đến khi mặt trời lặn (hoàng hôn). Còn Ban Đêm được tính từ lúc hoàng hôn buông xuống (của ngày hôm trước) đến lúc bình minh ló rạng (của ngày hôm sau).
1 : 6
Nguyên văn: Đức Chúa Trời lại phán rằng, "Phải có một khoảng không ở giữa nước, để phân rẽ nước với nước.” (God also said, 'Let there be a firmament in the midst of the waters, and let it divide waters from waters.')
+ Có bản dịch là: Và Đức Chúa Trời phán rằng, "Phải có một cái vòm giữa nước để phân cách nước với nước”. (And God said, "Let there be a vault between the waters to separate water from water.”)
1 : 7
"cái vòm”; "khoảng trống”: nguyên văn "firmament” (bầu trời, khoảng không)
1 : 11
Nguyên văn: "… Đất phải sinh cây cỏ xanh tươi, (bao gồm) cả cây cho hạt và cây cho trái, ra quả tùy theo loại hạt của nó, trên khắp mặt đất…”
(And he said, 'Let the land spring forth green plants, both those producing seed, and fruit-bearing trees, producing fruit according to their kind, whose seed is within itself, over all the earth.' And so it became.)
+ Có bản dịch là: "… Đất hãy sinh cây cỏ, có loại kết hạt, và có loại cho trái với hạt bên trong... ” (And God said, Let the earth bring forth grass, the herb yielding seed, and the fruit tree yielding fruit after his kind, whose seed is in itself, upon the earth: and it was so.)
+ Các loại cây lương thực như lúa, ngô, đại mạch, tiểu mạch… đều là các loài thực vật thân cỏ, hạt của chúng là thức ăn quan trọng dành cho con người và gia súc.
1 : 14
Nguyên văn: "Và Đức Chúa Trời phán rằng: Phải có những vì sáng vững chắc được tạo ra trên vòm trời, để phân chia giữa ngày và đêm, để chúng là những dấu hiệu cho các mùa, ngày và năm.” (Let there be lights made in the firmament of heaven, to divide the day and the night, and let them be for signs, and for seasons, and for days and years)
+ Các tiết (hay tiết khí) là cách tính lịch pháp của con người liên quan đến các hiện tượng thời tiết và khí hậu thường xuyên xảy ra hàng năm.
+ "Các Mùa” là sự phân chia của một năm, dựa trên sự thay đổi chung nhất theo chu kỳ của thời tiết.
1 : 16
Nguyên văn: "Đức Chúa Trời làm ra hai vì sáng lớn, vì lớn hơn để cai trị ban ngày, vì nhỏ hơn để cai trị ban đêm. Ông cũng tạo ra các ngôi sao.” (God made two great lights—the greater light to govern the day and the lesser light to govern the night. He also made the stars)
+ Có bản dịch là: "Đức Chúa Trời làm ra hai vì sáng lớn: một vì sáng lớn hơn để cai trị ban ngày, và một vì sáng nhỏ hơn để cai trị ban đêm cùng với các ngôi sao.” (And God made two great lights: a greater light, to rule over the day, and a lesser light, to rule over the night, along with the stars.)
1 : 29
Nguyên văn: "…Ta đã ban cho các ngươi mọi thứ cỏ kết hạt trên mặt đất, và mọi cây cối có khả năng gieo hạt riêng để làm lương thực cho các ngươi.” (Behold, I have given you every seed-bearing plant upon the earth, and all the trees that have in themselves the ability to sow their own kind, to be food for you.)
1 : 30
Nguyên văn: "và cho tất cả các loài động vật trên mặt đất, các loài bay trên không trung, và tất cả mọi thứ di chuyển trên trái đất và trong đó có một linh hồn sống, để chúng có thể được nuôi dưỡng bởi những thứ này. Và có liền như vậy.”
(and for all the animals of the land, and for all the flying things of the air, and for everything that moves upon the earth and in which there is a living soul, so that they may have these on which to feed. And so it became.)
+ Có bản dịch là: "Và mọi loài thú trên trái đất, đến mọi loài chim trên trời, và mọi loài bò sát trên mặt đất, nơi nào có sự sống, ta sẽ ban mọi thứ cỏ cây làm thức ăn: bèn có như vậy.”
(And to every beast of the earth, and to every fowl of the air, and to every thing that creepeth upon the earth, wherein there is life, I have given every green herb for meat: and it was so.)
1 : 31
Nguyên văn: "Và Thiên Chúa nhìn thấy mọi thứ mà Ngài đã tạo ra. Và chúng đều tốt lành. Vậy là hết buổi chiều và buổi sáng (của) ngày thứ sáu.” (And God saw everything that he had made. And they were very good. And it became evening and morning, the sixth day.)
+ "ngày thứ bảy đã sang”: xem chú thích 1 : 5

Các tin khác
Cái chết của Abel, tranh minh họa của Gustave Dore

Nguồn gốc của tội lỗi. Loài người bị đuổi khỏi vườn Eden.

Chúa tạo nên người đàn bà đầu tiên (Eva)

Thiết lập và thánh hóa ngày thứ bảy, Chúa tạo nên vườn Địa đàng và thiết lập hôn nhân.

Xem các tin đã đưa ngày:
Tin trong: Chuyên mục này Mọi chuyên mục