BÀI HÁT CỦA MOSES

  • Cập nhật: Thứ bảy, 2/4/2022 | 4:11:27 PM

Phục truyền luật lệ ký, chương 32

Bức bích họa Di chúc và Cái chết của Moses, do các họa sĩ người Ý, Luca Signorelli và Bartolomeo della Gatta, thực hiện vào năm 1482 và được đặt tại Nhà nguyện Sistine, Rome. (Wikipedia)
Bức bích họa Di chúc và Cái chết của Moses, do các họa sĩ người Ý, Luca Signorelli và Bartolomeo della Gatta, thực hiện vào năm 1482 và được đặt tại Nhà nguyện Sistine, Rome. (Wikipedia)




1. Hỡi bầu trời hãy lắng nghe tôi nói;
Mặt đất ơi hãy nhớ lấy lời tôi.
2. Những điều răn sẽ như mưa rơi xuống,

Sự chỉ dạy như sương lan khắp chốn
Trên cánh đồng; như mưa nhẹ nhàng rơi
Trên cỏ non, hoặc mưa rào tới tấp

Trên cây lá ở trong vườn.
3. Tôi sẽ,
Tôn vinh Ngài và rao giảng Yahweh,
Chúa chúng ta là Chúa Trời vĩ đại.

4. Là Vầng đá, việc Ngài làm hoàn hảo,
Mọi lối đi đều hướng đến công bình,
Vì Ngài là Đức Chúa Trời thành tín,

Không gian ác, Ngài thẳng ngay, chân thật.
5. Họ xấu xa vì chẳng phải dân Ngài:
Họ phản Chúa và trở nên giả dối,

Một thế hệ đảo điên và tội lỗi.
6. Hỡi những người xuẩn ngốc, chẳng khôn ngoan,
Có phải ngươi muốn thử lòng Thiên Chúa?

Ngài chẳng phải là Cha ngươi, Đấng đã
Cứu chuộc ngươi, và đã tạo nên ngươi,
Đấng thiết lập cho các ngươi vị trí?

7. Hãy nhớ lại những ngày xưa, năm tháng
Có biết bao thế hệ đã sinh ra;
Hãy suy ngẫm, hỏi cha ngươi, ông ấy

Sẽ chỉ dạy cho các ngươi, hoặc hỏi
Những người già trong bộ lạc của ngươi,
Họ sẽ nói nhiều điều cho ngươi biết.

8. Đấng Tối cao khi phân chia cơ nghiệp
Cho người dân sống trên trái đất này,
Các con trai của Adam được Chúa

Chia thành nhóm và định ra ranh giới
Mỗi tộc người, theo số lượng của dân
Israel.
9. Vì cháu con Jacob,

Là dân riêng và cũng là sản nghiệp
Của Chúa trời.
10. Ngài tìm thấy anh ta,
Trong sa mạc hoang vu và rộng lớn:

Ngài che chở và tận tình chỉ dẫn
Trên đường đi, chăm sóc họ giống như
Ngài gìn giữ đôi mắt mình,
11. Chẳng khác

Chim đại bàng dạy các con bay lượn
Quanh tổ chim những ngày tháng ấu thơ,
Với đôi cánh nó xòe ra dang rộng,

Nâng đỡ con trên đôi vai rắn chắc.
12. Chỉ mình Ngài dẫn dắt họ, ngoài ra
Các thần khác không ở cùng anh ta.

13. Vùng đất cao, Ngài đã đưa họ đến
Để thức ăn, sản vật của ruộng đồng
Gia tăng thêm; Ngài cũng ban cho họ

Dầu thắp sáng lấy ra từ đá lửa,
Mật ong treo trên vách đá khắp nơi.
14. Bơ từ sữa của đàn bò, và sữa

Của bầy cừu, và mỡ con chiên nhỏ,
Cùng giống cừu chăn thả ở Bashan,
Và dê đực, bột lúa mì tinh chất,

Rượu từ nho có màu hồng như huyết.
15. Jeshurun giờ đã béo mập lên,
Da thịt hắn đầy thức ăn, núc ních:

Thế là hắn tỏ ra không thành thật
Với Chúa trời là Đấng đã tạo nên
Jeshurun; không tôn vinh Vầng đá

Đã cứu rỗi cho anh ta.
16. Họ đã
Khiến Chúa trời cơn thịnh nộ nổi lên
Vì ghê tởm với việc làm của họ.

17. Dâng lễ vật, hiến tế cho quỷ dữ,
Không phải là Thiên Chúa của các ngươi,
Họ quỳ lạy những thần mình không biết,

Các thần này chỉ mới vừa xuất hiện,
Là những thần mà tổ phụ anh em,
Chẳng ai biết, cũng không ai kính sợ.

18. Ngươi vô tâm không nghĩ về Vầng đá,
Cha của ngươi, chẳng còn nhớ Yahweh
Đức Chúa trời, Đấng ban cho sự sống.

19. Chúa đã thấy và lấy làm ghê tởm
Các con trai và con gái của mình,
Vì tức giận nên Chúa trời bỏ họ.

20. Ngài phán rằng: Ta sẽ che giấu mặt,
Để coi xem kết cuộc chúng thế nào:
Vì đám này không có lòng trung tín,

Thiếu đức tin nên ngang tàng bướng bỉnh,
Chúng dối gian, khó kiểm soát vô cùng.
21. Chọc tức Ta, chúng tôn vinh thần khác,

Và quên luôn Đức Chúa trời của chúng,
Chọc giận Ta, chúng thờ phượng hư không;
Vì vậy Ta cũng sẽ làm chúng tức,

Khi tôn vinh dân này không bản sắc,
Gọi chúng là một bộ tộc ngu si,
Khiến bọn chúng phải tức điên vì giận.

22. Lửa thịnh nộ khi trong Ta bùng cháy,
Sẽ đốt thiêu cả địa ngục thẳm sâu,
Và hóa rụi cả địa cầu cùng với

Sự gia tăng trên đất đai; lửa cháy
Đến móng nền, gốc rễ của núi cao.
23. Ta sẽ gửi một cơn mưa rắc rối

Rơi lên chúng, rồi bắn tên vào chúng.
24. Nạn đói và các dịch bệnh tràn lan
Sẽ làm chúng suy kiệt dần rồi chết,

Và trở thành miếng mồi cay đắng nhất
Cho loài chim chuyên ăn sống nuốt tươi:
Ta sẽ gửi những hàm răng dã thú

Chống lại họ, cùng với cơn thịnh nộ
Của những loài bám trên đất bò đi,
Và lũ rắn thường nấp trong bờ bụi.

25. Ở bên ngoài thì chiến tranh hủy diệt,
Còn bên trong sự kinh hãi làm cho
Đám trai gái, trẻ con còn đang bú,

Và người già đều cùng chung cảnh ngộ.
26. Ta định là sẽ phân tán chúng đi,
Còn ký ức về loài người Ta sẽ

Xóa sạch hết, không còn gì trong chúng.
27. Nhưng lại e kẻ thù ghét anh ta,
Sẽ lầm tưởng, rồi tỏ ra kiêu hãnh,

Họ sẽ nói: Do chúng ta chiến thắng,
Chứ điều này Thiên Chúa có làm đâu.
28. Vì dân đó thiếu khôn ngoan, hiểu biết.

29. Giá như họ thông minh hơn một chút,
Sẽ hiểu ra và suy ngẫm, rồi đây
Tương lai mình sẽ ra sao.
30. Nếu họ,

Bị Vầng đá bán đi rồi, hoặc Chúa
Giao nộp cho kẻ thù nghịch anh em,
Thì một người rượt ngàn người sao đặng?

Có hai người, đuổi mười ngàn đi trốn?
31. Đến kẻ thù cũng biết Đá của ta
Khác hoàn toàn với đá nhà bọn họ.

32. Nho của chúng chồi mọc lên từ đất
Xứ Sodom và đất xứ Gomor(rah):
Vùng đất dữ nên trái đầy mật đắng;

33. Rượu của chúng được ủ bằng nọc rắn
Hổ mang bành uống vào sẽ vô phương.
34. Những việc đó làm sao ta quên được?

Vì ta đã cất nó trong kho báu.
35. Sự báo thù và báo đáp của ta,
Sẽ ấn định khi bước chân của chúng

Bị trượt ngã: Đó là ngày tai họa,
Sự diệt vong đã tới rất gần rồi;
Điều chúng đợi sẽ bất ngờ ập đến.

36. Vì dân Chúa sẽ bị Ngài phán xét,
Nhưng Yahweh sẽ lại động lòng thương
Tôi tớ Ngài khi Chúa trời nhận thấy,

Dân của mình giờ hao mòn, suy kiệt,
Không còn ai, nô lệ lẫn tự do,
Kẻ thất bại thì lặng im, yếu ớt.

37. Ngài sẽ phán: Các vị thần của chúng
Tảng đá mà ngươi đã đặt đức tin,
Họ ở đâu?
38. Những vị thần hưởng mỡ

Của con sinh, uống rượu vang lễ quán,
Ở đâu rồi? Hãy kêu họ giúp cho,
Và chở che khi các ngươi hoạn nạn.

39. Giờ nhìn xem còn vị thần nào khác
Ngoài Yahweh, Chúa của các anh em:
Đấng ban cho trái đất này sự sống,

Và cũng là Đấng ban cho sự chết,
Làm bị thương và chữa lại cho lành,
Chẳng có ai giúp được ngươi giải thoát

Khỏi tay ta.
40. Vì bàn tay ta đã
Giơ lên cao và ta đã thề rằng:
Đức Yahweh là Chúa trời hằng sống.

41. Nếu gươm ta vung lên như tia chớp,
Và dang tay để phán xét, thì ta
Sẽ trừng phạt những kẻ nào đối nghịch,

Và báo ứng những kẻ ta thù ghét.
42. Tên của ta sẽ say máu, và gươm
Sẽ ăn thịt, uống máu người đã chết,

Các tù nhân hay lấy đầu quân tướng
Của kẻ thù.
43. Hỡi dân ngoại hãy vui
Cùng dân Chúa, vì Yahweh ngài sẽ

Trả thù cho tôi tớ Ngài bằng huyết,
Sẽ báo thù kẻ cừu địch và tha
Cho tội lỗi của dân Ngài cùng xứ

Đức Chúa trời đã ban cho bọn họ.
44. Khi viết xong bài ca đó Moses,
Ông đã hát trước mọi người trong đó

Có Joshua, con trai Nun ở đấy.
45. Bài ca này sau khi đã hát lên,
46. Ông Moses lại nói cùng dân chúng:

Hãy ghi nhớ lời hôm nay ta nói
Cùng các ngươi trong sâu thẳm trái tim,
Rồi truyền lại cho cháu con dòng dõi:

Phải tuân theo luật pháp này, vâng giữ
Mọi lời răn được chép lại hôm nay.
47. Những điều này không phải là sáo rỗng

Với các ngươi mà nó là sự sống,
Nhờ điều này, ngươi có thể sống lâu
Trên đất ngươi qua Jordan chiếm lấy.

48. Cũng ngày này, Đức Yahweh lại phán
Với Moses,
49. Rằng ngươi hãy đi lên
Núi Abar(im), vượt qua rồi sẽ tới

Đỉnh Nebo, thuộc xứ người Moab,
Ngọn núi này đối diện với Jeri(cho),
Ngươi sẽ thấy xứ Cana(an) ta sẽ

Ban cho dân Hebrew làm sản nghiệp.
50. Còn nhà ngươi sẽ chết ở núi này,
Nơi ngươi sắp phải đi lên trên đó,

Rồi nhà ngươi sẽ về bên tổ phụ,
Như Aaron, đã chết ở Hor,
Và an giấc giữa dân mình.
51. Vì lỗi,

Ngươi đã phạm ở bên trong vùng nước
Meribath ở Kadesh, bên trong
Hoang mạc Zin; vì các ngươi không giữ

Danh của Chúa trước dân mình;
52. Do đó
Ngươi sẽ không vào được đất ta ban
Cho người dân Israel; tuy vậy

Ngươi có thể thấy xứ này vì nó
Đang hiện ra ở trước mắt nhà ngươi.

GHI CHÚ
32 : 2
+ Nguyên văn:
My teaching is dropping like rain, coming down like dew on the fields; like rain on the young grass and showers on the garden plants:
Hãy để Lời dạy của tôi nhỏ xuống như mưa, rơi trên cánh đồng như sương; như mưa trên cỏ non và mưa rào trên cây cối trong vườn:
+ VERSION 1609, 1582:
Let my doctrine gather as the rain, let my speech distil as the dew, as a shower upon the herb, and as drops upon the grass.
Hãy để giáo lý của tôi tụ lại như mưa, hãy để bài phát biểu của tôi tan như sương, như một cơn mưa rào trên cây cối và nhỏ giọt trên cỏ.
+ New King James version (NKJV):
Let my teaching drop as the rain, My speech distill as the dew, (Hãy để lời dạy của tôi rơi như mưa, Lời nói của tôi nhỏ giọt như sương,)
32 : 3
+ Nguyên văn:
For I will give honour to the name of the Lord: let our God be named great. (Vì tôi sẽ tôn vinh danh Chúa: để cho Đức Chúa Trời chúng ta được xưng là vĩ đại.)
+ VERSION 1609, 1582:
Because I will invoke the name of the Lord: give ye magnificence to our God. (Bởi vì ta sẽ cầu khẩn danh Chúa: xin ban cho các ngươi sự lộng lẫy/tráng lệ cho Đức Chúa Trời của chúng ta.)
+ New King James version (NKJV):
For I proclaim the name of the Lord: Ascribe greatness to our God. (Vì tôi rao truyền danh Chúa: Hãy tôn vinh sự cao cả cho Đức Chúa Trời của chúng ta.)
+ rao giảng: giảng giải, tuyên truyền ở nơi công cộng hoặc trên các phương tiện thông tin, cho mọi người đều biết (thường là những vấn đề về tôn giáo)
32 : 4
+ Mọi lối đi: ý nói quan điểm, đường lối. nguyên văn ‘for all his ways are righteousness’ (vì mọi đường lối của Ngài đều là sự công bình);
+ Nguyên văn:
He is the rock, complete is his work; for all his ways are righteousness: a God without evil who keeps faith, true and upright is he.
Ngài là tảng đá, hoàn hảo là việc của ngài; vì mọi đường lối của Ngài đều là sự công bình: Ngài là Đức Chúa Trời không có điều ác, luôn giữ đức tin, chân thật và ngay thẳng.
+ VERSION 1609, 1582:
The works of God are perfect, and all his ways are judgments: God is faithful and without any iniquity, he is just and right.
Công việc của Đức Chúa Trời là hoàn hảo, và mọi đường lối của Ngài đều là sự phán xét: Đức Chúa Trời là thành tín và không có bất kỳ sự gian ác nào, Ngài công bình và ngay thẳng.
+ New King James version (NKJV):
He is the Rock, His work is perfect; For all His ways are justice,
Ngài là Tảng đá, công việc của Ngài là hoàn hảo; Vì mọi đường lối của Ngài đều là công lý,
32 : 5
+ Họ xấu xa: nguyên văn là " They have become false” (Họ đã trở nên giả dối). Có bản dịch là "They have corrupted themselves” (Họ đã tự làm hư hỏng mình) hoặc " They have sinned against him ” (Họ phạm tội chống lại Chúa).
+ Nguyên văn:
They have become false, they are not his children, the mark of sin is on them; they are an evil and hard-hearted generation.
(Họ đã trở nên giả dối, họ không phải là con của Ngài, dấu vết của tội lỗi ở trên họ; họ là một thế hệ xấu xa và ngoan cố/bướng bỉnh, cứng rắn.)
+ VERSION 1609, 1582:
They have sinned against him, and are none of his children in their filth: they are a wicked and perverse generation.
(Họ đã phạm tội chống lại Ngài, và họ không phải là con cái của Ngài trong sự ô uế của họ: họ là một thế hệ hư hỏng và giả dối.)
+ New King James version (NKJV):
They have corrupted themselves; They are not His children, Because of their blemish: A perverse and crooked generation.
(Họ đã tự làm hư hỏng mình; Họ không phải là con của Ngài, Bởi sự ô uế của họ: Một thế hệ ngoan cố và lừa đảo.)
32 : 6
+ Vị trí: Ý nói họ là dân được biệt riêng của Chúa.
Nguyên văn: "Is not he thy father, that hath possessed thee, and made thee, and created thee?” (Chẳng phải ông ấy là cha của ngươi, đã sở hữu ngươi và tạo ra ngươi sao?)
32 : 10
+ anh ta: ám chỉ người Israel, dân riêng của Đức Chúa trời.
+ gìn giữ đôi mắt: nguyên văn "he kept him as the light of his eye” (Ngài đã giữ/bảo vệ anh ta như đã giữ/bảo vệ đôi mắt của mình). Có bản dịch là "and he kept him as the apple of his eye” (Ngài đã giữ/bảo vệ anh ta như đã giữ/bảo vệ con ngươi của mình).
32 : 11
+ những ngày tháng ấu thơ: nguyên văn "As an eagle stirs up its nest” (Như một con đại bàng tung tăng rời tổ/của nó)
32 : 13
+ Đá lửa là một dạng đá phiến silíc. Nó cũng là nguồn khoáng chất chủ yếu để tạo ra lửa kể từ khi con người biết cách tạo ra lửa và còn được sử dụng đối với các loại súng hỏa mai cho đến tận thế kỷ 18.
32 : 15
+ Jeshurun xuất hiện bốn lần trong Kinh thánh tiếng Do Thái: ba lần trong Phục truyền luật lệ ký và một lần trong sách Isaiah. Nó có thể ám chỉ đến dân tộc Israel hoặc Đất nước Israel, hoặc Tổ phụ Jacob, người được một thiên sứ đổi tên là Israel trong Sáng thế ký 32:29.
32 : 20
+ Nguyên văn:
And he said, My face will be veiled from them, I will see what their end will be: for they are an uncontrolled generation, children in whom is no faith.
Và Ngài đã phán, Ta sẽ giấu mặt trước chúng, Ta sẽ xem kết cục của chúng ra sao: vì chúng là một thế hệ không được kiểm soát, những đứa trẻ không có đức tin.
+ Có bản dịch là:
And he said: I will hide my face from them, and will consider what their last end shall be: for it is a perverse generation, and unfaithful children.
Và Ngài đã phán: Ta sẽ giấu mặt không cho họ biết, và sẽ xem xét kết cục cuối cùng của họ như thế nào: vì đó là một thế hệ hư hỏng/ngoan cố, và những đứa trẻ bất trung.
32 : 21
+ thờ phượng hư không: ý nói thờ phượng vị thần mà mình không biết.
+ dân này không bản sắc: ý nói một tộc người nhưng không có bản sắc riêng. (Nguyên văn: I will give their honour to those who are not a people, moving them to wrath by a foolish nation/Ta sẽ tôn vinh họ, những kẻ không phải là dân tộc, khiến một dân tộc ngu xuẩn như họ nổi cơn thịnh nộ,)
32 : 22
+ Sự gia tăng trên đất đai: ý nói cây cối, sản vật được gieo trồng trên đất.
32 : 23
+ Nguyên văn:
I will send a rain of troubles on them, my arrows will be showered on them. (Ta sẽ giáng một cơn mưa rắc rối vào chúng, những mũi tên của ta sẽ phóng lên chúng.)
+ Có bản dịch là:
I will heap disasters on them; I will spend My arrows on them. (Tôi sẽ ban tai họa cho chúng; Tôi sẽ bắn tên vào chúng.)
32 : 24
+ Nguyên văn:
They will be wasted from need of food, and overcome by burning heat and bitter destruction; and the teeth of beasts I will send on them, with the poison of the worms of the dust.
Chúng sẽ bị suy kiệt vì thiếu thức ăn, và bị ức chế bởi sức nóng thiêu đốt và sự hủy hoại cay đắng; và răng của thú vật sẽ được ta gửi đến chúng, với độc tố của côn trùng.
+ VERSION 1609, 1582:
They shall be consumed with famine, and birds shall devour them with a most bitter bite: I will send the teeth of beasts upon them, with the fury of creatures that trail upon the ground, and of serpents.
Chúng sẽ bị tiêu diệt bởi nạn đói, và trở thành miếng ăn cay đắng nhất cho loài chim chuyên ăn sống nuốt tươi: Ta sẽ giáng cho chúng hàm răng của dã thú, với cơn thịnh nộ của những sinh vật bám trên mặt đất và của loài rắn lớn.
+ New King James version (NKJV):
They shall be wasted with hunger, Devoured by pestilence and bitter destruction; I will also send against them the teeth of beasts, With the poison of serpents of the dust.
Họ sẽ bị suy kiệt vì đói, bị tàn phá bởi dịch bệnh và sự tàn phá cay đắng; Ta cũng sẽ chống lại chúng bằng hàm răng của thú dữ, với chất độc của loài rắn sống trong các bờ bụi.
32 : 35
+ Ngày tai họa: nguyên văn "the day of their calamity” (ngày tai họa của họ). Có bản dịch là "the day of their downfall” (ngày họ sụp đổ) hoặc "the day of destruction” (ngày hủy diệt)

Các tin khác
Marina Ivanovna Tsvetaeva (1892–1941)

Marina Tsvetaeva là một trong số những nhà văn, nhà thơ xuất sắc nhất của Nga trong thế kỉ XX. Bà là một nhà thơ trữ tình, với niềm đam mê thử nghiệm ngôn ngữ táo bạo. Các tác phẩm của Marina Tsvetaeva được coi là một trong những tác phẩm vĩ đại nhất trong văn học Nga thế kỷ XX, bởi nó là dấu ấn về một biên niên sử nổi bật về thời đại và chiều sâu của thân phận con người.

Anna Akhmatova (1889–1966)

Anna Andreyevna Gorenko thường được biết đến với bút danh Anna Akhmatova. Là một nhà văn, nhà phê bình và dịch giả, Anna Akhmatova. là một trong những nhà thơ Nga quan trọng và xuất sắc nhất thế kỷ 20. Tác phẩm của Akhmatova trải dài từ những bài thơ trữ tình ngắn đến những bài có cấu trúc phức tạp, chẳng hạn như Requiem (1935–1940), kiệt tác bi thảm của bà về sự khủng bố của chủ nghĩa Stalin.

Christian Johann Heinrich Heine (1797 - 1856)

Christian Johann Heinrich Heine là một nhà thơ, nhà văn, nhà phê bình văn học người Đức. Ông nổi tiếng với các bài thơ trữ tình và thơ của ông được phổ nhạc nhiều nhất trên thế giới, trong đó có các nhà soạn nhạc nổi tiếng như Robert Schumann và Franz Schubert.

Georg Trakl (1887-1914)

Là một trong những người theo trường phái biểu hiện quan trọng nhất của Áo, Georg Trakl là nhà thơ người Áo viết bằng tiếng Đức xuất sắc nhất sau Rilke ở đầu thế kỷ 20. Ông được biết đến nhiều nhất với bài thơ "Grodek", bài thơ mà ông đã viết không lâu trước khi chết vì dùng quá liều cocaine.

Xem các tin đã đưa ngày:
Tin trong: Chuyên mục này Mọi chuyên mục